Viêm amidan mãn tính có thể đeo bám tới nhiều năm và kéo theo nhiều nguy cơ biến chứng như áp xe amidan, suy giảm thính lực, nguy cơ sốt thấp khớp, viêm cơ tim và suy thận… Viêm amidan hốc mủ: Bệnh viêm amidan hốc mủ có thể diễn ra ở 1 hoặc cả 2 bên amidan khẩu cái. Các
[SET 50 CÁI] Khẩu trang KF94 UNI MASK 4 lớp kháng khuẩn, kiểu dáng 4D Hàn Quốc hàng chính hãng chống bụi mịn Đã bán: 17,216/197,522 699 đánh giá Giá khuyến mãi: 9,950đ15,000đ Mua Với Giá Tốt Nội dung chính [SET 50 CÁI] Khẩu trang KF94 UNI MASK 4 lớp kháng khuẩn, kiểu dáng 4D Hàn Quốc hàng chính hãng chống bụi mịnGăng tay y tế
Như số liệu hệ thống đã thống kê, sản phẩm Khẩu trang n95 trẻ em có van thở SHB pro mask chính hãng, mask kn95 cho bé cao cấp chuẩn FFP2 (hộp 10 cái) thương hiệu No Brand hiện đang được đăng bán trực tuyến Sendo.. Quý khách hàng có thể mua được sản phẩm Khẩu trang n95 trẻ em có van thở SHB pro mask chính hãng, mask
Phần mềm Cơ sở khám chữa bệnh - Bản thử nghiệm. Phần mềm được phát triển với sự hỗ trợ, hợp tác của Hội Khoa học Kinh tế Y tế Việt Nam. Hỗ trợ 0937 664 443 hoặc chatluongbenhvien@gmail.com
Bác sĩ Lu Feng, phó trưởng khoa tim mạch của Bệnh viện y học cổ truyền Trung Quốc Hoài An cho biết: Uống giấm sẽ không làm mềm mạch máu một chút nào mà thậm chí sẽ kích thích tiết axit dạ dày, làm trầm trọng thêm các triệu chứng viêm loét dạ dày ban đầu.
Thuốc giảm đau, hạ sốt - chống viêm kê đơn; Thuốc kháng sinh - kháng nấm/ kháng virus kê đơn; Thuốc tiểu đường - hormon và nội tiết kê đơn Khẩu trang Y tế 4U Mask VD94 không bí thở, êm vừa khít, lọc bụi mịn và vi khuẩn (Túi 10 cái) lọc bụi mịn và vi khuẩn (Túi 10
Mã sản phẩm: 4979607009623 Kết cấu sợi nhỏ đan khít, ôm sát, hạn chế tối đa kẽ hở dù là nhỏ nhất, bảo vệ bé khỏi tới 99% các tác nhân gây ô nhiễm như khói bụi, phấn hoa, các virus gây bệnh, bố mẹ có thể hoàn toàn yên tâm cho bé sử dụng. Không gây kích ứng hay khó chịu, cho bé những trải nghiệm tốt nhất.
1 Khẩu trang 3m chính hãng chống bụi mịn và corona, các loại khẩu trang nên dùng. 1.1 VIRUS VIÊM PHỔI CORONA là gì? 2.1.2 1 Cái khẩu trang 3M 8822 chất liệu mềm tĩnh điện, dây đeo qua đầu, có van thở 1 chiều,
Vay Nhanh Fast Money.
Nhà thuốc Ngọc Anh – Để tải bài viết Viêm niêm mạc miệng Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và hướng dẫn điều trị theo BMJ file PDF xin vui lòng click vào link ở đây. Tóm tắt ◊ Viêm cấp tính ở niêm mạc miệng sau khi hóa trị liệu toàn thân và/hoặc phát xạ. Việc chẩn đoán chủ yếu dựa trên bệnh sử và khám lâm sàng. ◊ Biểu hiện lâm sàng khác nhau từ ban đỏ đến loét theo đám hoặc loét hợp nhất thường với màng giả mạc trên bề mặt hoặc hiếm khi hoại tử rõ ràng. ◊ Nếu nặng, có thể giảm liều hóa trị liệu không mong muốn và/hoặc áp dụng ◊ Các tổn thương thường rất đau. Điều trị theo triệu chứng và bao gồm vệ sinh răng miệng và kiểm soát ◊ Điều trị phòng ngừa bao gồm palifermin, liệu pháp la-de mức thấp, và sử dụng các mẫu đá trong khi điều trị tiêm truyền hóa trị liệu. Thông tin cơ bản Định nghĩa Viêm niêm mạc miệng thứ phát do điều trị ung thư là viêm niêm mạc miệng cấp tính đáp ứng với hóa trị liệu và/hoặc phát xạ toàn thân đến các khu vực ảnh hưởng khoang miệng. Biểu hiện lâm sàng từ viêm dạ dày dạng chấm đến tổn thương loét trợt và loét rõ ràng. Các tổn thương thường rất đau, có thể làm suy giảm dinh dưỡng và vệ sinh răng miệng, và có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng khu trú và toàn thân. Hơn nữa, viêm niêm mạc miệng nặng có thể cần giảm liều hóa trị liệu không mong muốn và/hoặc áp dụng xạ trị. Do đó, viêm niêm mạc là biến chứng cao đáng kể của liệu pháp điều trị ung thư, với khả năng tác động lên tiên lượng của bệnh nhân.[1] Dịch tễ học Theo dữ liệu báo cáo cho biết viêm niêm mạc miệng xảy ra ở 20% đến 40% bệnh nhân người lớn bị ung thư đang được hóa trị liệu thông thường để điều trị khối u thể rắn,[2] khoảng 80% bệnh nhân đang được hóa trị liệu liều cao trước khi ghép tế bào gốc tạo máu,[3] và hầu hết các bệnh nhân đang được xạ trị điều trị ung thư đầu và cổ.[4] Bệnh căn học Viêm niêm mạc miệng do ảnh hưởng của liệu pháp hóa trị liệu và/hoặc xạ trị ung thư trên niêm mạch miệng gây ra. Một số loại thuốc hóa trị liệu liên quan đến viêm niêm mạc nặng hơn các loại khác. Ví dụ như fluorouracil là loại thuốc đặc biệt gây độc cho niêm mạc. Các phác đồ có sử dụng fluorouracil liều nhanh gây viêm niêm mạc nhiều hơn các phác đồ sử dụng thuốc tiêm truyền trong thời gian dài hơn. Phác đồ hóa trị liệu liều cao hơn sử dụng docetaxel, doxorubicin, cyclophosphamide ví dụ như TAC để điều trị ung thư vú liên quan đến nguy cơ viêm niêm mạc miệng cao hơn.[2] Viêm niêm mạc do xạ trị thường hạn chế ở vị trí trong phạm vi phát xạ. Do đó, viêm niêm mạc miệng thường gặp hơn ở những bệnh nhân có bệnh ác tính nguyên phát ảnh hưởng đến khoang miệng hoặc họng hầu, so với những bệnh nhân có bệnh ác tính nguyên phát ở các vị trí đầu và cổ khác ví dụ như thanh quản.[5] Mức độ viêm niêm mạc nặng do phát xạ phụ thuộc vào liều dùng và chương trình điều trị. Hầu hết các bệnh nhân được xạ trị nhận hơn 5000 cGy sẽ tiến triển viêm niêm mạc loét, và bệnh lý này có nhiều khả năng xảy ra ở bệnh nhân được thay đổi lịch chiếu xạ hơn là những bệnh nhân được xạ trị thông thường.[5] Hơn nữa, những bệnh nhân được hóa trị liệu đồng thời với xạ trị đầu và cổ hóa xạ trị có nhiều khả năng đáng kể tiến triển viêm niêm mạc miệng hơn những người không sử dụng.[5] Sinh lý bệnh học Sinh lý bệnh có tính đa nhân tố. Mô hình 5 giai đoạn được đề xuất.[6] [7] Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý rằng những biến cố này không hoàn toàn theo tuyến và thường xảy ra đồng thời. • Bắt đầu thương tổn mô xạ trị và/hoặc hóa trị liệu, dù trực tiếp hay thông qua việc tạo các loại oxy phản ứng, gây tổn thương tế bào làm chết tế bào đáy biểu mô của niêm mạc miệng. Việc giải phóng các phân tử đặc trưng liên quan đến tổn thương nội sinh khỏi tế bào bị tổn thương có thể kích hoạt một đợt viêm. • Tăng cường điều chỉnh viêm các gốc oxy tự do kích hoạt thông điệp thứ hai truyền tín hiệu từ các thụ thể trên bề mặt tế bào vào trong tế bào, dẫn đến tăng cường điều chỉnh cytokine tiền viêm, thương tổn mô, và chết tế bào. • Phát tín hiệu và khuếch đại tăng cường điều chỉnh các cytokine tiền viêm như TNF-alpha, gây thương tổn trực tiếp cho tế bào biểu mô và kích hoạt các đường phân tử làm khuếch đại tổn thương niêm mạc. • Loét và nhiễm trùng loét miệng do hệ vi khuẩn trong miệng khu trú thứ phát, gây tăng cường điều chỉnh thêm các cytokine tiền viêm và thâm nhiễm các tế bào viêm. • Chữa lành sự gia tăng biểu mô và biệt hóa mô góp phần vào quá trình chữa lành. Phân loại Theo điều trị ung thư • Viêm niêm mạc miệng do hóa trị liệu gây ra • Thứ phát do hóa trị liệu liều tiêu chuẩn • Thứ phát do hóa trị liệu liều cao thực hiện trước khi ghép tế bào gốc tạo máu • Viêm niêm mạc miệng do tia xạ gây ra Phòng ngừa Ngăn ngừa sơ cấp Nhiều chiến lược phòng ngừa khác nhau đã được xác định và khuyến nghị.[9] Cần sử dụng tùy chỉnh theo phác đồ điều trị ung thư cho từng cá nhân. Đối với những bệnh nhân sử dụng thuốc hóa trị liệu liều tiêm nhanh với thời gian bán thải ngắn, như fluorouracil và melphalan, sử dụng các viên đá để áp lạnh’ có thể giảm mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc miệng.[10] Người ta cho rằng ảnh hưởng này qua trung gian giảm cung cấp thuốc vào niêm mạc miệng thứ phát do co mạch cục bộ. Cần ngậm đá trong miệng, bắt đầu 5 phút trước khi sử dụng hóa trị liệu và thêm đá nếu cần trong tối đa 30 phút. Có thể sử dụng yếu tố tăng trưởng tế bào keratin tái tổ hợp ở người -1 palifermin để giảm tỷ lệ mắc bệnh và thời gian viêm niêm mạc miệng nặng ở bệnh nhân bị bệnh lý huyết học ác tính đang được điều trị với liệu pháp tiêu hủy tủy xương cần hỗ trợ tạo máu.[11] Thuốc được truyền qua đường tĩnh mạch trong 3 ngày liên tiếp trước và 3 ngày sau khi hóa trị liệu. Giữ gìn vệ sinh răng miệng tốt có thể giảm mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc miệng ở bệnh nhân đang được hóa trị liệu.[12] [13] [14] Chăm sóc răng miệng thích hợp trước khi bắt đầu điều trị, và sử dụng quy trình chăm sóc răng miệng trong khi điều trị có thể là chiến lược phòng ngừa hữu ích.[15] Chăm sóc răng miệng cần bao gồm sử dụng bàn chải đánh răng mềm và thường xuyên thay mới. Ở bệnh nhân phục hình răng kim loại, sử dụng thiết bị như bảo vệ răng, cục bông, hoặc sáp để phân cách kim loại với niêm mạc có thể phòng ngừa viêm niêm mạc gần bên do tán xạ ngược.[16] Liệu pháp la-de mức thấp giúp giảm mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc miệng cho bệnh nhân được hóa trị liệu hoặc hóa xạ trị liều cao trước khi ghép tế bào gốc tạo máu, và bệnh nhân được xạ trị đầu và cổ mà không được hóa trị liệu đồng thời.[17] Không rõ cơ chế hoạt động, nhưng dường như thông qua việc thúc đẩy chữa lành và tác động kháng viêm.[18] [19] Ở nhiều trung tâm không sử dụng liệu pháp la-de mức thấp. Nước rửa miệng benzydamine cho thấy giúp giảm mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc ở bệnh nhân được xạ trị đầu và cổ ở liều trung bình lên đến 50 Gy mà không được hóa trị liệu đồng thời.[20] Tuy nhiên, hầu hết các phác đồ xạ trị điều trị ung thư đầu và cổ sử dụng liều dùng 60-70 Gy, và hiện thường sử dụng hóa trị liệu đồng thời. Ngăn ngừa thứ cấp Các chiến lược phòng ngừa thứ cấp đối với viêm niêm mạc miệng giống với phòng ngừa ban đầu. Tiền sử ca bệnh Tiền sử ca bệnh 1 Một bệnh nhân nữ 57 tuổi có biểu hiện đau miệng nặng. Bà ấy cho biết tiền sử gần đây được hóa trị liệu để điều trị ung thư kết tràng với phác đồ FOLFOX 5-fluorouracil, calcium folinate [leucovorin], và oxaliplatin. Chu trình hóa trị liệu gần đây nhất của bà ấy là 2 tuần trước. Khi khám, niêm mạc miệng dường như ban đỏ, với các vết loét chú ý thấy ở hai bên trên lưỡi bên và niêm mạc má. Tiền sử ca bệnh 2 Một bệnh nhân nam 66 tuổi có biểu hiện đau miệng và đau họng nặng khiến ông ấy không thể ăn được thức ăn đặc. Ông ấy có tiền sử điều trị tia xạ liên tục để điều trị ung thư đáy lưỡi bên phải. Ông ấy đã hoàn tất 6 tuần trong phác đồ xạ trị 7 tuần theo kế hoạch. Khi khám lâm sàng, niêm mạc miệng ở bên phải miệng dường như phát ban đỏ, với các vết loét lớn phủ một màng giả thấy ở lưng lưỡi bên phải và hầu miệng. Cách tiếp cận chẩn đoán từng bước Viêm niêm mạc miệng thường được chẩn đoán dựa trên bệnh sử và PE. Yếu tố chẩn đoán quan trọng nhất là tiền sử hóa trị liệu và/hoặc xạ trị để điều trị ung thư. Trong các trường hợp nhất định, có thể thực hiện xét nghiệm để loại bỏ các bệnh lý khác có thể giống hoặc gây biến chứng từ viêm niêm mạc. Tiền sử và PE Tiền sử cần bao gồm loại điều trị ung thư mà bệnh nhân đang được điều trị, bao gồm phác đồ và cường độ. Phác đồ hóa trị liệu, xạ trị tích cực vào khoang miệng,1[C]Evidence liệu trình liều chiếu,2[C]Evidence và hóa xạ trị để điều trị ung thư miệng3[C]Evidence liên quan chặt chẽ với nguy cơ viêm niêm mạc miệng tăng cao.[2] [5] Cần đặt câu hỏi cho bệnh nhân về các triệu chứng như đau miệng hoặc chảy máu, về bất kỳ khó khăn nào khi nuốt và duy trì lượng thức ăn và chất dịch. Khả năng duy trì lượng thức ăn và bù nước bình thường qua đường uống bị ảnh hưởng bởi mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc. Cần xác định chắc chắn biểu hiện và mức độ suy giảm ví dụ như nếu bệnh nhân có thể ăn uống bình thường; ăn và nuốt chế độ ăn được thay đổi; hoặc nếu không thể ăn hoặc uống đầy đủ. Bệnh nhân được xạ trị vào đầu và cổ có thể cho biết khô miệng. Bệnh nhân cũng có thể cho biết tiêu chảy do viêm niêm mạc tiêu hóa liên quan. Khi khám, các thay đổi niêm mạc miệng từ ban đỏ đến loét theo đám hoặc loét hợp nhất thường với màng giả mạc trên bề mặt hoặc hiếm khi hoại tử rõ ràng.[21] Ở bệnh nhân được hóa trị, các tổn thương có thể một bên hoặc hai bên, và thường giới hạn ở niêm mạc miệng không bị sừng hóa. Các vị trí thường gặp bao gồm niêm mạc má, mặt bụng lưỡi, và khẩu cái mềm. [Fig-2] mặt bên [Fig-1] Ở bệnh nhân được hóa trị liệu liều tiêu chuẩn, các tổn thương thường xảy ra trong vòng 2 tuần từ khi bắt đầu, và khỏi trong vòng 2 đến 4 tuần. Các tổn thương có thể kéo dài lâu hơn ở bệnh nhân được hóa trị liệu liều cao trước khi ghép tế bào gốc tạo máu HSCT; ở những bệnh nhân này, viêm niêm mạc thường khỏi đồng thời với việc hồi phục số lượng bạch cầu trung tính mặc dù mối liên hệ tạm thời này có thể không phải là nguyên nhân gây bệnh. Viêm niêm mạc miệng sau khi xạ trị giới hạn ở vị trí phát xạ. Các tổn thương thường gặp hơn ở niêm mạc không bị sừng hóa, nhưng có thể thấy ở các mô bị sừng hóa ví dụ như khẩu cái cứng, bề mặt lưng lưỡi nếu phát xạ liều cao trực tiếp chiếu xạ vào những vị trí này. Bệnh nhân được xạ trị 6000 đến 7000 cGy trong 6 đến 7 tuần tiến triển ban đỏ niêm mạc sau 1 đến 3 tuần, sau đó tiến triển thành viêm niêm mạc loét trong 3 đến 5 tuần. Mức độ nghiêm trọng của các tổn thương tăng theo liều thuốc sử dụng, và có thể mất 3 đến 10 tuần để chữa lành, tùy theo phạm vi và mức độ nghiêm trọng. Sốt có thể liên quan đến biểu hiện nhiễm trùng, hoặc có thể là do sốt giảm bạch cầu trung tính sau khi hóa trị liệu. Cần đánh giá nhanh chóng bất kỳ bệnh nhân nào có nhiệt độ đo được gần đây >38,3°C 101°F, hoặc ≥38°C 100,4°F trong vòng 1 giờ về sốt giảm bạch cầu trung tính, với nuôi cấy máu, để có thể nhanh chóng sử dụng thuốc kháng sinh. Loét niêm mạc miệng rõ ràng có thể là cửa ngõ xâm lấn hệ vi khuẩn trong miệng vào trong máu. Có thể thấy các tổn thương biến chứng từ nhiễm trùng do vi-rút hoặc nấm thứ phát, thỉnh thoảng ở các vị trí bất thường đối với viêm niêm mạc như niêm mạc bị sừng hóa khẩu cái cứng, lợi, lưng lưỡi, và có thể cho thấy lâu lành. Nhiễm trùng do vi-rút, thường là vi-rút herpes simplex HSV HSV, biểu hiện loét dạng mụn nước có nhiều khả năng xảy ra ở bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch cao như bệnh nhân được HSCT.[22] Nhiễm trùng do nấm thứ phát, thường do Candida albicans, nhưng cũng do các loài nấm candida khác C glabrata và C tropicalis gây ra, thường gặp ở bệnh nhân đang được chiếu xạ đầu và cổ, nhất là những người bị suy giảm chức năng nước bọt đáng kể.[23] Dễ dàng chẩn đoán lâm sàng hình thức nhiễm nấm miệng candida màng giả màu trắng. Nhiễm nấm Candida dạng ban đỏ dạng teo có thể biểu hiện là những tổn thương teo rất đỏ trên vòm miệng, như là các vùng loang lổ không có nhú hình chỉ trên lưng lưỡi, hoặc như các vùng đỏ lốm đốm trên niêm mạc má. Tiêu chí chẩn đoán Tiêu chí thuật ngữ thường gặp của Viện Ung Thư Quốc Gia về các biến cố bất lợi phiên bản Không có triệu chứng hoặc các triệu chứng nhẹ; không chỉ định can thiệp Đau vừa, không cản trở lượng nạp qua đường miệng Đau nặng, cản trở lượng nạp qua đường miệng Hậu quả đe dọa tính mạng; chỉ định can thiệp khẩn cấp Tử vong Các xét nghiệm trong phòng xét nghiệm Đối với hầu hết bệnh nhân, không cần thiết phải xét nghiệm đặc hiệu. Nếu biểu hiện gợi ý sốt giảm bạch cầu trung tính, cần chỉ định thực hiện công thức máu có đếm thành phần bạch cầu và nuôi cấy máu. Cần giải thích WBC và số lượng bạch cầu trung tính ANC kèm theo bất kỳ bệnh ác tính liên quan. Tuy nhiên, ANC 38,3°C 101°F, hoặc ≥38°C 100,4°F trong vòng 1 giờ về sốt giảm bạch cầu trung tính, với nuôi cấy máu, để có thể nhanh chóng sử dụng thuốc kháng sinh. Loét niêm mạc miệng rõ ràng có thể là cửa ngõ xâm lấn hệ vi khuẩn trong miệng vào trong máu. Xét nghiệm chẩn đoán Xét nghiệm thứ nhất cần yêu cầu Xét nghiệm Kết quả chẩn đoán lâm sàng • Thường không cần thực hiện xét nghiệm đặc điểm của viêm niêm mạc miệng Các xét nghiệm khác cần cân nhắc Xét nghiệm Kết quả Công thức máu và thành phần bạch cầu • Cần chỉ định ngay lập tức đối với bất kỳ bệnh nhân nào nghi ngờ sốt giảm bạch cầu trung tính nhiệt độ hiện đo được là >38,3°C [101°F], hoặc ≥38°C [100,4°F] trong vòng 1 giờ. • Cần giải thích WBC và số lượng bạch cầu trung tính ANC kèm theo bất kỳ bệnh ác tính liên quan. Tuy nhiên, khi có sốt, ANC 38,3°C [101°F], hoặc ≥38°C [100,4°F] trong vòng 1 giờ, ANC 100; P A mutation in the dihydropyrimidine dehydrogenase gene of patients with severe 5-fluorouracil-associated toxicity. Pharmacogenetics. 2002;12555-558. Tóm lược 9. Lalla RV, Bowen J, Barasch A, et al. MASCC/ISOO clinical practice guidelines for the management of mucositis secondary to cancer therapy. Cancer. 2014;1201453-1461. Toàn văn Tóm lược 10. Peterson DE, Ohrn K, Bowen J, et al. Systematic review of oral cryotherapy for management of oral mucositis caused by cancer therapy. Support Care Cancer. 2013;21327-332. Tóm lược 11. Spielberger R, Stiff P, Bensinger W, et al. Palifermin for oral mucositis after intensive therapy for hematologic cancers. N Engl J Med. 2004;3512590-2598. Toàn văn Tóm lược 12. Cheng KK, Molassiotis A, Chang AM, et al. Evaluation of an oral care protocol intervention in the prevention of chemotherapy-induced oral mucositis in paediatric cancer patients. Eur J Cancer. 2001;372056-2063. Tóm lược 13. Levy-Polack MP, Sebelli P, Polack NL. Incidence of oral complications and application of a preventive protocol in children with acute leukemia. Spec Care Dentist. 1998;18189-193. Tóm lược 14. Borowski B, Benhamou E, Pico JL, et al. Prevention of oral mucositis in patients treated with high-dose chemotherapy and bone marrow transplantation a randomised controlled trial comparing two protocols of dental care. Eur J Cancer B Oral Oncol. 1994;30B93-97. Tóm lược 15. McGuire DB, Fulton JS, Park J, et al. Systematic review of basic oral care for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;213165-3177. Tóm lược 16. Hensley ML, Hagerty KL, Kewalramani T, et al. American Society of Clinical Oncology 2008 clinical practice guideline update use of chemotherapy and radiation therapy protectants. J Clin Oncol. 2009;27127-145. Toàn văn Tóm lược 17. Migliorati C, Hewson I, Lalla RV, et al. Systematic review of laser and other light therapy for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;21333-341. Tóm lược 18. Lopes NN, Plapler H, Chavantes MC, et al. Cyclooxygenase-2 and vascular endothelial growth factor expression in 5-fluorouracil-induced oral mucositis in hamsters evaluation of two low-intensity laser protocols. Support Care Cancer. 2009;171409-1415. Tóm lược 19. Lopes NN, Plapler H, Lalla RV, et al. Effects of low-level laser therapy on collagen expression and neutrophil infiltrate in 5-fluorouracil-induced oral mucositis in hamsters. Lasers Surg Med. 2010;42546-552. Tóm lược 20. Nicolatou-Galitis O, Sarri T, Bowen J, et al. Systematic review of anti-inflammatory agents for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;213179-3189. Tóm lược 21. Department of Health and Human Services. Common terminology criteria for adverse events CTCAE. June 2010. last accessed 10 November 2016. Toàn văn 22. Sullivan KM, Dykewicz CA, Longworth DL, et al. Preventing opportunistic infections after hematopoietic stem cell transplantation the Centers for Disease Control and Prevention, Infectious Diseases Society of America, and American Society for Blood and Marrow Transplantation Practice Guidelines and beyond. Hematology Am Soc Hematol Educ Program. 2001392-421. Toàn văn Tóm lược 23. Soysa NS, Samaranayake LP, Ellopola AN. Cytotoxic drugs, radiotherapy and oral candidiasis. Oral Oncol. 2004;40971-978. Tóm lược 24. Wald A, Huang ML, Carrell D, et al. Polymerase chain reaction for detection of herpes simplex virus HSV DNA on mucosal surfaces comparison with HSV isolation in cell culture. J Infect Dis. 2003;1881345-1351. Tóm lược 25. Saunders DP, Epstein JB, Elad S, et al. Systematic review of antimicrobials, mucosal coating agents, anesthetics, and analgesics for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;213191-3207. Tóm lược 26. Leenstra JL, Miller RC, Qin R, et al. Doxepin rinse versus placebo in the treatment of acute oral mucositis pain in patients receiving head and neck radiotherapy with or without chemotherapy a phase III, randomized, double-blind trial NCCTG-N09C6 [Alliance]. J Clin Oncol. 2014;321571-1577. Tóm lược 27. Raber-Durlacher JE, von Bültzingslöwen I, Logan RM, et al. Systematic review of cytokines and growth factors for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;21343-355. Tóm lược 28. Riley P, Glenny AM, Worthington HV, et al. Interventions for preventing oral mucositis in patients with cancer receiving treatment cytokines and growth factors. Cochrane Database Syst Rev. 2017 Nov 28;11CD011990. Tóm lược 29. Riley P, Glenny AM, Worthington HV, et al. Interventions for preventing oral mucositis in patients with cancer receiving treatment oral cryotherapy. Cochrane Database Syst Rev. 2015;12CD011552. Toàn văn Tóm lược 30. Spielberger R, Emmanouilides C, Stiff P, et al. Use of recombinant human keratinocyte growth factor rHuKGF can reduce severe oral mucositis in patients pts with hematologic malignancies undergoing autologous peripheral blood progenitor cell transplantation auto-PBPCT after radiation-based conditioning – results of a phase 3 trial. Proc Am Soc Clin Oncol. 2003;22abstr 3642. 31. Lalla RV, Peterson DE. Treatment of mucositis, including new medications. Cancer J. 2006;12348-354. Tóm lược 32. Rugo H, Seneviratne L, Beck J, et al. Prevention of everolimus/exemestane EVE/EXE stomatitis in postmenopausal PM women with hormone receptor-positive HR+ metastatic breast cancer MBC using a dexamethasone-based mouthwash MW results of the SWISH trial. 2016 ASCO Annual Meeting;abstract 525. J Clin Oncol. 2016;34525. Toàn văn 33. Elting LS, Keefe DM, Sonis ST, et al. Patient-reported measurements of oral mucositis in head and neck cancer patients treated with radiotherapy with or without chemotherapy demonstration of increased frequency, severity, resistance to palliation, and impact on quality of life. Cancer. 2008;1132704-2713. Tóm lược 34. Al-Dasooqi N, Sonis ST, Bowen JM, et al. Emerging evidence on the pathobiology of mucositis. Support Care Cancer. 2013;213233-3241. Tóm lược 35. Sonis ST. New thoughts on the initiation of mucositis. Oral Dis. 2010;16597-600. Tóm lược 36. Van Kuilenburg AB, Meinsma R, Zoetekouw L, et al. High prevalence of the IVS14 + 1G>A mutation in the dihydropyrimidine dehydrogenase gene of patients with severe 5-fluorouracil-associated toxicity. Pharmacogenetics. 2002;12555-558. Tóm lược 37. Lalla RV, Bowen J, Barasch A, et al. MASCC/ISOO clinical practice guidelines for the management of mucositis secondary to cancer therapy. Cancer. 2014;1201453-1461. Toàn văn Tóm lược 38. Peterson DE, Ohrn K, Bowen J, et al. Systematic review of oral cryotherapy for management of oral mucositis caused by cancer therapy. Support Care Cancer. 2013;21327-332. Tóm lược 39. Spielberger R, Stiff P, Bensinger W, et al. Palifermin for oral mucositis after intensive therapy for hematologic cancers. N Engl J Med. 2004;3512590-2598. Toàn văn Tóm lược 40. Cheng KK, Molassiotis A, Chang AM, et al. Evaluation of an oral care protocol intervention in the prevention of chemotherapy-induced oral mucositis in paediatric cancer patients. Eur J Cancer. 2001;372056-2063. Tóm lược 41. Levy-Polack MP, Sebelli P, Polack NL. Incidence of oral complications and application of a preventive protocol in children with acute leukemia. Spec Care Dentist. 1998;18189-193. Tóm lược 42. Borowski B, Benhamou E, Pico JL, et al. Prevention of oral mucositis in patients treated with high-dose chemotherapy and bone marrow transplantation a randomised controlled trial comparing two protocols of dental care. Eur J Cancer B Oral Oncol. 1994;30B93-97. Tóm lược Tuyên bố miễn trách nhiệm bên ngoài Hoa Kỳ và Canada. BMJ Publishing Group Ltd ”BMJ Group” nỗ lực để đảm bảo rằng các thông tin được cung cấp là chính xác và cập nhật, nhưng chúng tôi và cả những người cấp giấy phép của chúng tôi, là những người cung cấp các nội dung nhất định có liên kết với nội dung của chúng tôi hoặc có thể truy cập được từ nội dung của chúng tôi, đều không đảm bảo điều đó. BMJ Group không ủng hộ hay xác nhận việc sử dụng bất kỳ loại thuốc hay trị liệu nào trong đó và BMJ Group cũng không thực hiện chẩn đoán cho các bệnh nhân. Các chuyên gia y tế cần sử dụng những cân nhắc chuyên môn của mình trong việc sử dụng thông tin này và chăm sóc cho bệnh nhân của họ và thông tin trong này không được coi là sự thay thế cho việc đó. các phương pháp chẩn đoán, điều trị, liên lạc theo dõi, thuốc và bất kỳ chống chỉ định hay phản ứng phụ nào. Ngoài ra, các tiêu chuẩn và thực hành y khoa đó thay đổi khi có thêm số liệu, và quý vị nên tham khảo nhiều nguồn khác nhau. Chúng tôi đặc biệt khuyến nghị người dùng nên xác minh độc lập các chẩn đoán, điều trị và theo dõi liên lạc được đưa ra, đồng thời đảm bảo rằng thông tin đó là phù hợp cho bệnh nhân trong khu vực của quý vị. Ngoài ra, liên quan đến thuốc kê toa, chúng tôi khuyên quý vị nên kiểm tra trang thông tin sản phẩm kèm theo mỗi loại thuốc để xác minh các điều kiện sử dụng và xác định bất kỳ thay đổi nào về liều dùng hay chống chỉ định, đặc biệt là nếu dược chất được cho sử dụng là loại mới, ít được sử dụng, hay có khoảng trị liệu hẹp. Quý vị phải luôn luôn kiểm tra rằng các loại thuốc được dẫn chiếu có giấy phép để sử dụng cho mục đích được nêu và trên cơ sở được cung cấp trong tình trạng “hiện có” như được nêu, và trong phạm vi đầy đủ được pháp luật cho phép BMJ Group và những người cấp giấy phép của mình không chịu bất kỳ trách nhiệm nào cho bất kỳ khía cạnh chăm sóc sức khỏe nào được cung cấp với sự hỗ trợ của thông tin này hay việc sử dụng nào khác của thông tin này.
Khẩu cái mềm Hệ hô hấp trên, với khẩu cái mềm nằm gần trung tâm. Chi tiết Động mạch lesser palatine arteries, ascending palatine artery Dây thần kinh pharyngeal branch of vagus nerve, medial pterygoid nerve, lesser palatine nerves, glossopharyngeal nerve[1] Định danh Latinh Ronalum molle, velum palatinum MeSH D010160 TA FMA 55021 Thuật ngữ giải phẫu [Chỉnh sửa cơ sở dữ liệu Wikidata] Khẩu cái mềm là mô mềm cấu thành phía sau vòm miệng ở lớp Thú. Khẩu cái mềm là một phần của vòm miệng; phần còn lại là vòm miệng cứng. Khẩu cái mềm được phân biệt với vòm miệng cứng nằm phía trước miệng ở chỗ nó không chứa xương. Cấu trúc[sửa sửa mã nguồn] Cơ[sửa sửa mã nguồn] Cắt bỏ các cơ của vòm miệng từ phía sau. Năm cơ của khẩu cái mềm đóng vai trò quan trọng trong việc nuốt và thở là Tenor veli palatini, có liên quan đến nuốt Palatoglossus, liên quan đến việc nuốt Palatopharyngeus, liên quan đến hít thở Levator veli palatini, tham gia nuốt Musculus uvulae, di chuyển lưỡi gà Các cơ này được bố trí thần kinh bởi viêm tĩnh mạch hầu thông qua dây thần kinh phế vị, ngoại trừ veli palatini tenor. Các veli palatini tenor được bẩm sinh bởi sự phân chia bắt buộc của dây thần kinh dưới của dây thần kinh sinh ba V3.[2] Chức năng[sửa sửa mã nguồn] Khẩu cái mềm có thể di chuyển, bao gồm các sợi cơ được bọc trong niêm mạc. Nó có trách nhiệm đóng cửa hệ hô hấp trong hành động nuốt, và cũng để đóng đường thở. Trong khi hắt hơi, nó bảo vệ đường mũi bằng cách chuyển một phần chất bài tiết vào miệng. Ở người, lưỡi gà được treo ở cuối khẩu cái mềm. Chạm vào lưỡi gà hoặc cuối khẩu cái mềm gợi lên một phản xạ bịt miệng mạnh mẽ ở hầu hết mọi người. Nói[sửa sửa mã nguồn] Một âm thanh lời nói được tạo ra bởi phần giữa của lưỡi dorsum chạm vào khẩu cái mềm được gọi là âm ngạc mềm. Có thể cho khẩu cái mềm rút lại và nâng lên trong khi nói để tách khoang miệng khỏi khoang mũi tạo ra âm thanh lời nói. Nếu sự phân tách này không đầy đủ, không khí thoát ra qua mũi, khiến cho lời nói bị coi là có giọng mũi. Tạo kiểu mẫu[sửa sửa mã nguồn] Trong cấu trúc vi mô của khẩu cái mềm có nhiều loại sợi định hướng thay đổi tạo ra bề mặt không đều với phân bố mật độ không đều. Các mô đã được đặc trưng với độ nhớt, phi tuyến và dị hướng theo hướng của các sợi. Giá trị suất Young nằm trong khoảng từ 585 Pa ở rìa tự do sau của khẩu cái mềm đến 1409 Pa ở khẩu cái mềm gắn vào hàm trên.[3] Các tính chất này rất hữu ích khi định lượng tác động của các thiết bị chỉnh hình chỉnh hình như Tấm Hotz trên khe hở môi. Các phân tích định lượng đã được thực hiện trên vòm miệng hai bên và độc lập để hiểu rõ hơn về sự khác biệt hình học của hở hàm ếch trong suốt quá trình phát triển và điều trị.[4] Mặc dù khó khăn trong việc tìm kiếm các mốc phổ biến để có thể so sánh giữa khẩu cái mềm và vòm miệng, các phương pháp phân tích đã được đưa ra để đánh giá sự khác biệt về mức độ cong của đỉnh phế nang, diện tích bề mặt hai chiều và ba chiều và độ dốc của đỉnh phế nang. Phân tích phần tử hữu hạn đã chứng minh mô hình hiệu quả của việc mở rộng và chuyển động khẩu cái mềm. Nó cũng là một công cụ hiệu quả để đánh giá hiệu quả sọ não của các thiết bị chỉnh hình và chữa trị sứt môi. Ý nghĩa lâm sàng[sửa sửa mã nguồn] Bệnh[sửa sửa mã nguồn] Bệnh lý của khẩu cái mềm bao gồm các tổn thương niêm mạc như pemphigus vulgaris, herpangina và viêm miệng di chuyển[5] và về các cơ bắp như sứt môi và hở hàm ếch bẩm sinh và sứt môi. Vòm miệng ban xuất huyết. Đốm xuất huyết trên khẩu cái mềm chủ yếu liên quan đến viêm họng do liên cầu khuẩn,[6] và do đó, đây là một phát hiện không phổ biến nhưng rất đặc hiệu.[7] 10 đến 30 phần trăm các trường hợp đốm xuất huyết trên vòm miệng được ước tính là do việc mút, có thể là thói quen hoặc từ việc liếm dương vật.[8] Hình ảnh bổ sung[sửa sửa mã nguồn] Khẩu cái mềm không có amidan sau phẫu thuật cắt amidan Phần mũi của miệng, hầu họng và thanh quản. Khoang miệng. Má đã bị rạch ngang và lưỡi kéo về phía trước. Thành bên của khoang mũi. Khẩu cái mềm có thể nhìn thấy ở phía dưới bên phải Xem thêm[sửa sửa mã nguồn] Palatine amidan Tham khảo[sửa sửa mã nguồn] ^ “Cranial Nerves IX and X The Glossopharyngeal and Vagus Nerves”. Clinical Methods The History, Physical, and Laboratory Examinations. Butterworths. 1990. ISBN 9780409900774. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2017.[cần chú thích đầy đủ] ^ Drake, Richard L.; Vogl, Wayne; Tibbitts, Adam Mitchell; illustrations by Richard; Richardson, Paul 2005. Gray’s anatomy for students. Philadelphia Elsevier/Churchill Livingstone. tr. 1000. ISBN 978-0-8089-2306-0. ^ Birch, M. J.; Srodon, P. D. 2009. “Biomechanical Properties of the Human Soft Palate”. The Cleft Palate-Craniofacial Journal. 46 3 268–74. doi PMID 19642755. ^ Berkowitz, S; Krischer, J; Pruzansky, S 1974. “Quantitative analysis of cleft palate casts. A geometric study”. The Cleft Palate Journal. 11 134–61. PMID 4524356. ^ Zadik, Yehuda; Drucker, Scott; Pallmon, Sarit 2011. “Migratory stomatitis ectopic geographic tongue on the floor of the mouth”. Journal of the American Academy of Dermatology. 65 2 459–60. doi PMID 21763590. ^ Fact Sheet Tonsillitis from American Academy of Otolaryngology. “Updated 1/11”. Retrieved November 2011 ^ Brook, I; Dohar, J. E. 2006. “Management of group a beta-hemolytic streptococcal pharyngotonsillitis in children”. The Journal of Family Practice. 55 12 S1–11, quiz S12. PMID 17137534. ^ Page 134 in Michael Glick; Greenberg, Martin Harry; Burket, Lester W. 2003. Burket’s oral medicine diagnosis & treatment. Hamilton, Ont BC Decker. ISBN 978-1-55009-186-1. Liên kết ngoài[sửa sửa mã nguồn] Hình ảnh tại WebMD Hình giải phẫu 3401-03 tại Giải phẫu người trực tuyến, Trung tâm y tế ngoại ô SUNY – “Sơ đồ các vùng của khoang miệng”.
Viêm phế quản uống kháng sinh gì? có nên dùng những loại thuốc kháng sinh cho những lần điều trị lâu dài là những vấn đề được nhiều người bệnh quan tâm. Đọc ngay bài viết để tham khảo những thông tin quan hiểu bệnh viêm phế quảnTìm hiểu bệnh viêm phế quảnViêm phế quản là một dạng bệnh lý về đường hô hấp rất dễ xuất hiện ở cả người lớn và trẻ em. Khi thời tiết thay đổi thất thường, mùa đông kéo dài khiến cơ thể suy yếu vì không thể thích nghi kịp. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các loại vi khuẩn, virus xâm nhập và lan rộng dẫn đến bệnh viêm phế phần bệnh viêm phế quản xuất hiện thường do tác nhân virus xâm nhập, còn vi khuẩn vẫn chiếm tỉ lệ xuất hiện hiếm hơn nhiều. Việc đó khiến căn bệnh này có khả năng gây nguy hiểm cao hơn rất nhiều lần so với những bệnh lý khác và thực tế cho thấy viêm phế quản cũng rất khó điều trị. Ngoài ra khí thải, chất độc hại, tác nhân gây ô nhiễm môi trường, tác nhân dị ứng, khói thuốc lá…cũng là những nguyên nhân dẫn đến bệnh viêm phế quản cấp ở cả người lớn và trẻ có dấu hiệu mắc bệnh viêm phế quản đồng nghĩa với việc các triệu chứng của bệnh sẽ đeo bám cơ thể bệnh nhân trong một thời gian dài. Với lần đầu tiên “ra mắt”, viêm phế quản sẽ thể hiện ra ngoài cơ thể cùng với những triệu chứng về viêm đường hô hấp trên. Cụ thể như Người bệnh có dấu hiệu sốt nhẹ, hắc hơi và sổ mũi liên tục, đau rát vùng cổ họng. Sau vài ngày bệnh sẽ tiến triển với nhiều triệu chứng thể hiện sự nguy hiểm khác Sốt cao trên 39 độ C, ho khan và ho có đờm xuất hiện nhiều hơn đờm có lẫn nhiều mủ vàng hoặc xanh sẫm, ho có đờm lẫn bệnh nhân đang mắc bệnh viêm phế quản không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách sẽ chuyển sang nhiều biến chứng nguy hiểm khác. Những biến chứng này không chỉ gây ảnh hương nghiêm trọng đến sức khỏe người bệnh mà còn có khả năng gây tử vong nào nên dùng thuốc kháng sinh chữa viêm phế quản?Khi nhận thấy cơ thể có những dấu hiệu mắc bệnh viêm phế quản, người bệnh cần dùng các loại thuốc kháng sinh theo sự chỉ dẫn của bác sĩ. Ngoài ra tùy thuộc theo những nguyên nhân gây bệnh mà các bác sĩ có thể kê đơn thuốc, chỉ định sử dụng thuốc đúng cách, đúng liều nào nên dùng thuốc kháng sinh chữa viêm phế quản1. Viêm phế quản xuất hiện do vi khuẩnCần dùng thuốc kháng sinh với những trường hợp bị viêm phế quản do vi khuẩn tác đông và có những dấu hiệuHo khan, ho có đờm có chứa nhiều mủ vàng hoặc xanh sẫmViêm phế quản đã xuất hiện và duy trì trạng thái trên 10 ngàyTrong máu ngoại vi đột nhiên chứa một số lớn lượng bạch cầu, tăng cao trên 10Giga/lít2. Viêm phế quản bội nhiễmTrong thời gian virus xâm nhập và lây lan nhưng người bệnh không được điều trị kịp thời đã tạo điều kiện cho các loại vi khuẩn tiếp tục xâm nhập vào cơ thể thông qua đường hô hấp. Khi đó trong cơ thể bệnh nhân chứa đồng thời cả viêm phế quản do virus gây ra và viêm phế quản do vi khuẩn gây hại xâm nhập, được gọi chung là viêm phế quản bội trường hợp viêm phế quản bội nhiễm người bệnh nên dùng thuốc kháng sinh theo quy định của bác cùng là bệnh viêm phế quản nhưng nếu do tác nhân virus sinh ra bệnh, người bệnh sẽ không được sử dụng các loại thuốc kháng sinh để điều trị. Bởi khi sử dụng những loại dược phẩm này chữa viêm phế quản do virus gây nên không chỉ không có tác dụng mà còn xảy ra hiện tượng kháng thuốc mạnh mẽ của các loại virus. Ngoài ra cơ thể còn xuất hiện chứng lờn thuốc, thuốc không có tác dụng trị bệnh cho những lần cạnh đó tuyệt đối không sử dụng thuốc kháng sinh cho các trường hợp viêm phế quản gây sốt, đau nhức vùng đầu, mệt mỏi kéo dài, đau rát vùng cổ họng, ho có đờm trắng… vì đây là những dấu hiệu bệnh do virus mang nhiên dù là ở bất cứ trường hợp nào vẫn không nên lạm dụng quá nhiều thuốc kháng sinh gây tác dụng phụ và ảnh hưởng đến cơ phế quản uống kháng sinh gì?Tùy thuộc vào từng cơ địa, nguyên nhân gây bệnh và mức độ phát triển của từng bệnh lý mà các bác sĩ chuyên khoa sẽ kê đơn thuốc kháng sinh phù hợp cho từng bệnh nhân viêm phế quản. Cụ thể như sauViêm phế quản uống kháng sinh gì?Sử dụng những thuốc kháng sinh có tác dụng chống co thắt phế quản theophylin, salbutamolChữa viêm phế quản bằng thuốc an thầnSử dụng thuốc kháng histaminKhi viêm phế quản kéo theo chứng ho có đờm liên tục trong thời gian từ 5 đến 10 ngày, người bệnh có thể dùng thuốc kháng sinh prednisolon, thuốc long đờmTrường hợp viêm phế quản gây ho khan có thể dùng tecpin-codein, paxeladine để giảm hoViêm phế quản kèm theo triệu chứng sốt trên 38 độ C có thể dùng panadol, efferalgan để hạ sốtNhững lưu ý khi dùng thuốc kháng sinh chữa viêm phế quảnKhông chỉ đối với bệnh viêm phế quản mà trong rất nhiều trường hợp khác việc sử dụng thuốc kháng sinh phải được cân nhắc sử dụng sao cho hợp lý và đúng liều lượng; tuyệt đối không nên tự ý đoán bệnh và mua thuốc kháng sinh sử dụng không theo một đơn thuốc nào của bác sĩ; chỉ nên sử dụng thuốc kháng sinh trong một thời gian ngắn, không nên sử dụng lâu dài và lạm dụng thuốc quá ra trong thời gian chữa viêm phế quản bằng thuốc kháng sinh cần kết hợp thêm một vài lưu ý. Điều này sẽ giúp hỗ trợ công cuộc điều trị trở nên tốt hơn. Cụ thể nhưCần uống nhiều nước trong thời gian dùng thuốc kháng sinh chữa viêm phế quảnChỉ dùng thuốc kháng sinh khi có sự hướng dẫn và chỉ định của các bác sĩ chuyên khoaCung cấp nhiều dưỡng chất cho cơ thể, đặc biệt là chất sắt, đạm, các loại vitamin có trong rau củ quả, nước ép trái câyUống nhiều nước lọc hằng ngàyCó chế độ nghỉ ngơi nhiềuHạn chế thực hiện các hoạt động liên quan nhiều đến thể lựcTạo không khí ẩm bằng máy tạo độ ẩm hoặc cũng có thể để một chậu nước trong phòngThuốc chữa ho và thuốc long đờm nên sử dụng đúng, cách đúng liều lượng và khi thật sự cần thiếtNhững loại thuốc giảm đau chữa các triệu chứng do viêm phế quản gây ra cần nên sử dụng theo sự chỉ dẫn nghiêm ngặt của bác sĩHạn chế dùng những loại thức ăn quá cay hoặc quá nóngHạn chế sử dụng những loại chất kích thích Rượu, bia, khói thuốc láSống và làm việc tại những nơi trong lành, thoáng mátHạn chế tiếp xúc với khói bụi, khí thải, nấm móc, hóa chất, các tác nhân gây ô nhiễm môi trường, các tác nhân dị ứng, vi khuẩn, virus… bằng cách mang khẩu trong khi ra đườngHạn chế nuôi chó mèo trong nhàHạn chế chưng hoa trong phòngVệ sinh mũi, miệng, họng sạch sẽ bằng cách dùng nước muối sinh lý hoặc nước muối pha loãng súc miệng, rửa mũi hằng ngay cho bác sĩ chuyên khoa khi có những dấu hiệu bất thường khác xảy ra trong thời gian sử dụng thuốc kháng sinhThông qua bài viết, bạn đọc sẽ biết được những thông tin cần thiết xoay quanh bệnh viêm phế quản, viêm phế quản uống thuốc kháng sinh gì cũng như những lưu ý khi dùng thuốc kháng sinh trong thời gian chữa bệnh. Theo đó bệnh nhân cần tuyệt đối cẩn trọng khi dùng các loại dược phẩm chữa viêm phế quản để tránh những điều không hay có thể xảy ra. Mặt khác trong thời gian điều trị bệnh, nếu cơ thể có những dấu hiệu bất thường xảy ra cần đến ngay các cơ sở y tế để được thăm khám, kiểm tra và điều trị kịp LinhCó thể bạn quan tâmĐiều trị ngay khi viêm phế quản ho ra máuViêm phế quản có lây không? Phòng tránh như thế nào?Bị viêm phế quản có nên uống nước cam? Bác Sĩ giải đáp
Trang chủ Khám bệnh online Răng Hàm Mặt Câu hỏi Bác sĩ cho em hỏi là ở phần khẩu cái mềm em dùng lưỡi chạm vào có nhiều hạt li ti là bị sao ạ? ZL Thế Anh Trả lời Ảnh bạn đọc cung cấp Chào bạn, Theo hình ảnh cung cấp thì tổn thương ở niêm mạc miệng chủ yếu là viêm, thường gặp do nguyên nhân nhiễm siêu vi. Bệnh thông thường không cần điều trị, có thể tự khỏi sau 7-10 ngày. Bạn cũng có thể dùng các thuốc bôi trị áp-tơ miệng khi đau rát nhiều. Nếu kéo dài hơn hoặc có biểu hiện tăng kích thước, thay đổi hình dạng, nên sắp xếp khám bác sĩ Răng Hàm Mặt bạn nhé! Thân mến! Câu hỏi liên quan 17 tuổi dương vật chưa phát triển, có nên dùng testosterone? Các triệu chứng thường gặp sau khi rút ống JJ? Đau bụng kèm buồn nôn sau 3 ngày uống thuốc điều trị Hp Bài viết có hữu ích với bạn? Có thể bạn quan tâm Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình ©2010 - 2023 bởi Công ty Cổ phần Truyền Thông Hạnh Phúc Thông tin trên trang mang tính chất tham khảo, vui lòng không tự ý áp dụng, nếu không có sự đồng ý của bác sĩ điều trị.
viêm khẩu cái mềm