Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.
Những vần thơ Chế Lan Viên làm ra đã khiến Hàn Mặc Tử kinh ngạc. Đọc thơ của Chế, thi sĩ họ Hàn tìm ra được một hướng sáng tác: những bài thơ điên loạn. Trước đó, ông đã nghiên cứu rất kỹ trường thơ tượng trưng của Pháp. Từ trái sang: Các nhà thơ Quách Tấn
Tượng Hàn Mặc Tử trên đồi Mộng Mơ, Đà Lạt. Có lẽ thi sĩ cũng biết điều đó vì anh rể của ông hồi đó là y tá trong Bệnh viện Quy Nhơn và thi sĩ cũng là người có trình độ hiểu biết cao. Nhưng Tử vẫn luôn luôn nghĩ về cái chết. Tử đã đoán trước được ngày
Chế Lan Viên từng quả quyết: “Tôi xin hứa với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử” (“Thơ của người”, Báo Ngày nay, số ra ngày 07/8/1938). Trong Thi nhân
1.Trước cách mạng, cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên là chủ tướng của nhóm thơ Bình Định với cái tên khá rùng rợn Trường thơ loạn. Thay mặt cho nhóm thơ này, Chế Lan Viên đã có một tuyên ngôn về thơ nổi tiếng trong lời tựa tập Điêu tàn: “ Hàn Mặc Tử nói: làm
Hàn Mặc Tử (22/9/1912 – 11/11/1940) là nhà thơ nổi bậc của Việt Nam, là người khởi xướng nên trường thơ loạn, đi tiên phong trong dòng thơ lãng mạn hiện đại. Nói về Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên ca ngợi: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi
Chế Lan Viên was associated with the Bình Định Group of poets, whose other members were Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, and Yến Lan. The preface to his first collection, Điêu Tàn, was also a statement of the aesthetics of the "Disordered" (Loạn), also known as "Mad" (Điên), school of poetry.
[ 294 ]Xã hội Nước Hàn nổi tiếng với quan điểm chạy đua trong giáo dục. [ 295 ] Mặc dù học viên và sinh viên Nước Hàn thường được xếp hạng cao trong những bảng xếp hạng quốc tế.
Vay Tiền Nhanh Ggads. Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9, 1912 – mất 11 tháng 11, 1940 là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức, sinh hạ được 8 người con 1-Nguyễn Bá Nhân tức nhà thơ Mộng Châu cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. 2- Nguyễn Thị Như Lễ. 3- Nguyễn Thị Như Nghĩa. 4- Nguyễn Trọng Trí tức nhà thơ Hàn Mặc Tử. 5- Nguyễn Bá Tín người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13-02-1959. 6- Nguyễn Bá Hiếu; 2 người em út Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Văn Thảo. Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do thân phụ là ông Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ 1920, Qui Nhơn, Bồng Sơn 1921-1923, Pellerin Huế 1926. Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền. Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người. Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại "phong ngứa" gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng. Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile. Bác sĩ nói rằng Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học thời đó chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng Phan Thiết, qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên. Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bao nhiêu bệnh nhân đã bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi, thì Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học vì lẽ ra cần phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa.. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa. Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa 20 tháng 9 năm 1940 mang số bệnh nhân và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28. Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện. Nguyễn Trọng Trí làm thơ từ năm mười sáu tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử. "Hàn Mạc Tử" nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. "Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên". Theo Wikipedia
Giải tríGiới saoTrong nước Thứ tư, 19/1/2005, 0724 GMT+7 Những vần thơ Chế Lan Viên làm ra đã khiến Hàn Mặc Tử kinh ngạc. Đọc thơ của Chế, thi sĩ họ Hàn tìm ra được một hướng sáng tác những bài thơ điên loạn. Trước đó, ông đã nghiên cứu rất kỹ trường thơ tượng trưng của Pháp. Từ trái sang Các nhà thơ Quách Tấn, Nguyễn Đình, Chế Lan Viên năm 1941. Quy Nhơn - Bình Định là vùng đất thiêng. 500 năm trước, vùng đất này là chiến trường đẫm máu. Một vương triều sụp đổ, bao nhiêu chiến binh tử trận. Thành Đồ Bàn ngày nào còn lại một dãy gò sỏi mênh mông với những tháp Chàm đổ nát. Từ xưa, nhiều thi sĩ khi qua đây đã cảm xúc bật ra những vần thơ thống thiết. Vào những năm 1930-1945, Quy Nhơn - Bình Định bỗng trở thành vùng đất cực thịnh của văn chương nghệ thuật. Nơi đây tập trung toàn những thi sĩ tầm cỡ. Thuở ấy, có cậu học trò nhút nhát thích làm thơ tên là Phan Ngọc Hoan. Đắm mình trong không gian huyền hoặc của cõi Đồ Bàn, Hoan đặt cho mình cái tên Chế Lan Viên rồi khóc than người đã khuất bằng tập thơ Điêu tàn với những câu thơ thật lạ lùng "Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận/Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang/Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận/Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn". Năm 1936, từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã gặp Chế Lan Viên. Chế tìm đến Tử như tìm đến một ông thày dạy làm thơ. Thế nhưng những vần thơ của Chế đã khiến Tử kinh ngạc "Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước/Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn/Hơi người chết tỏa đầy trong gió lướt/Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ xanh non/Trên một nấm mồ tàn ta nhặt được/Khớp xương ma trắng tựa não cân người/Tủy đã cạn nhưng vẫn đầm hơi ướt/Máu tuy khô còn đượm khí tanh hôi". Trước đó, Hàn Mặc Tử đã nghiên cứu rất kỹ về trường phái thơ tượng trưng của Pháp. Chàng mong muốn tạo ra một trường phái thơ cho riêng mình. Giờ đây Chế đã làm lóe lên trong đầu Tử cái mà lâu nay chàng đi tìm nhưng chưa thấy. Trước đó, khi Yến Lan hoàn thành bản thảo tập Giếng loạn, Tử đã mơ hồ nghĩ đến một thứ thơ "không giống ai". Bây giờ đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác những bài thơ điên loạn. Vì vậy, ngay trong ngày Chế Lan Viên và Yến Lan đem bản in đặc biệt của tập Điêu tàn đến cho chàng xem, chàng hồ hởi công bố ngay việc thành lập Trường thơ loạn. Từ đó, dưới ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử, các thành viên trong Trường thơ loạn say sưa sáng tác. Có những đêm cả bọn đem chăn màn ra bờ biển ở lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ dị. Thơ của các thi sĩ Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa bước chân vào thế giới rùng rợn đó. Nếu Hàn Mặc Tử thích thú với hồn để viết "Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút/Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta/Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/Như mê man chết điếng cả làn da" thì Chế Lan Viên lại khoái... sọ người hơn "Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại/Muốn riết mi trong sức mạnh tay ta/ Để những giọt máu đào còn đọng lại/Theo hồn ta tuôn chảy những lời thơ/Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ/Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô". Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời Trường thơ loạn khiến văn thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiều người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể "Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo Hàn Mặc Tử thơ với thẩn gì, toàn nói nhảm! Có người còn nghiêm khắc hơn nữa Thơ gì mà rắc rối thế. Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!". Đặc biệt Xuân Diệu là người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên của Tử. Hoài Thanh kể tiếp "Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mặc Tử khi viết đoạn này Hãy so sánh thái độ can đảm kia thái độ những nhà chân thi sĩ với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu Tôi điên đây! Tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống”. Đúng là những vần thơ điên của các thi sĩ đã gây shock cho nhiều người. Nhưng thật ra đó chỉ là một cách giải quyết sự bế tắc trong tư tưởng mà thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác khá nhiều vần thơ kỳ dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941. Sang năm 1942, đến lượt Bích Khê cũng vĩnh viễn ra đi. Trường thơ loạn từ đó tan rã. Theo Thanh Niên
Giáo dụcTrắc nghiệm Thứ bảy, 16/12/2017, 1952 GMT+7 Năm 1936, Bình Định xuất hiện một nhóm thơ được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" hay còn gọi là nhóm thơ Bình Định. Gần mười năm tồn tại 1936-1945, nhóm chỉ có bốn thành viên là Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan và Chế Lan Viên. Chân dung nhà thơ Hàn Mặc Tử. Khoảng thời gian đó, Hàn Mặc Tử biết Yến Lan vừa hoàn thành một tập thơ viết về đề tài chiến tranh, nhan đề Giếng loạn. Tập thơ đã gợi cho Hàn Mặc Tử cái tên của trường phái mà ông định thành lập. Sau đó, Hàn Mặc Tử lại được Chế Lan Viên tặng tập Điêu tàn 1937. Hàn Mặc Tử nhận thấy trong nhóm thơ tính khuynh hướng thể hiện rất rõ trong sáng tác của từng người nên ông đề xướng việc thành lập "trường thơ loạn". Hàn Mặc Tử nói "Lâu nay chúng ta làm toàn những loại thơ điên loạn, xem ra có đủ nhân tố để dựng một trường thơ, trường thơ điên loạn. Rồi chúng ta sẽ tiếp tục có tuyên ngôn bổ sung khi in tập thơ chung của trường thơ loạn". Trong bài tựa tập thơ Điêu tàn do chính tác giả Chế Lan Viên viết, có đoạn Hàn Mặc Tử viết Làm thơ tức là điên. Tôi thêm Làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người mơ, Người say, Người điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu, Nó thoát Hiện Tại. Nó xáo trộn Dĩ vãng. Nó ôm trùm Tương Lai. Thơ của các thi sĩ "trường thơ loạn" tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy. Tất cả say sưa bước chân vào thế giới rùng rợn đó. Riêng Hàn Mặc Tử năm 1938 cũng có tập Thơ điên, gồm ba phần Hương thơm, Mật đắng, Máu cuồng và hồn điên. Câu 2 Hàn Mặc Tử được sinh ra ở đâu? a. Quảng Trị b. Quảng Bình c. Quảng Nam
chế lan viên nói về hàn mặc tử